6 biến chứng chính của bệnh gút và 3 loại cây dùng trong bài thuốc bắc

bien-chung-benh-gut-va-thuoc-bac-tri-benh-gut-1

 

Bạn thân mến!

Bệnh gút là bệnh rối loạn chuyển hóa các chất purin trong cơ thể người, quá trình tổng hợp hoặc bài tiết acid uric tăng hoặc giảm dẫn đến tăng acid uric máu, khi nồng độ acid uric trong máu quá cao, acid uric sẽ lắng đọng ở các khớp, sụn… và thận ở dạng muối natri, gây ra các mô phản ứng viêm của cơ thể nước ngoài, cụ thể là bệnh gút. Dưới đây là những biến chứng của căn bệnh này và một số cách giúp bạn kiểm soát nó.

6 biến chứng chính của bệnh gút

bien-chung-benh-gut-va-thuoc-bac-tri-benh-gut-2

1. Bệnh sỏi thận do axit uric

Bệnh sỏi thận do axit uric có thể xảy ra ở 10% đến 25% bệnh nhân gút. Một số bệnh nhân thậm chí còn tìm cách điều trị với bệnh sỏi thận do axit uric là triệu chứng đầu tiên.

Những viên sỏi nhỏ như phù sa dễ dàng đào thải qua nước tiểu và bệnh nhân có thể không có triệu chứng gì, những viên sỏi lớn hơn thường gây ra các cơn đau quặn thận và ra máu.

Người bị nhiễm trùng đường tiết niệu có thể có các triệu chứng kích thích đường tiết niệu như tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu khó hoặc đau thắt lưng.

2. Bệnh thận gút

Nói chung, quá trình của bệnh tiến triển chậm. Khi bệnh tiến triển, protein niệu dần dai dẳng, chức năng cô đặc của thận bị suy giảm, xuất hiện tình trạng tiểu đêm và tiểu đẳng trương.

Ở giai đoạn muộn có thể xuất hiện suy thận mạn, biểu hiện là phù, tăng huyết áp, tăng urê máu và creatinin, cuối cùng bệnh nhân có thể tử vong do suy thận.

Một số ít bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng chính là bệnh gút, nhưng các triệu chứng của viêm khớp không rõ ràng.

Do quá trình lọc của thận bị suy giảm, việc đào thải axit uric ra ngoài bị giảm sút, có thể gây tăng axit uric máu. Do đó, đối với bệnh nhân suy thận mạn và tăng acid uric máu, rất khó xác định mối quan hệ nhân quả giữa tăng acid uric máu và bệnh thận.

3. Suy thận cấp

Một số lượng lớn tinh thể urat làm tắc nghẽn ống thận, bể thận và niệu quản, gây tắc nghẽn đường tiết niệu, dẫn đến tình trạng thiểu niệu đột ngột, thậm chí là vô niệu ở người bệnh, nếu không được điều trị kịp thời có thể nhanh chóng phát triển thành suy thận cấp, thậm chí gây tử vong.

4. Rối loạn mỡ máu

Người bị bệnh gút có xu hướng ăn quá nhiều và thường bị béo phì, do đó, nhiều bệnh nhân bị tăng mỡ máu, có liên quan mật thiết đến việc xuất hiện xơ cứng động mạch.

5. Bệnh tiểu đường

Một bài kiểm tra tải lượng đường trong miệng được thực hiện trên bệnh nhân gút và cho thấy rằng 30 - 40% bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường "nhẹ không phụ thuộc insulin", nguyên nhân là do béo phì và ăn quá nhiều và độ nhạy insulin thấp. Nếu bạn có thể thực hiện chế độ ăn kiêng. điều trị sớm, và Kiểm soát cân nặng của bạn, và độ nhạy insulin của bạn có thể nhanh chóng phục hồi.

6. Cao huyết áp

Khoảng một nửa số bệnh nhân gút bị cao huyết áp, ngoài tình trạng tăng huyết áp do rối loạn chức năng thận nêu trên thì tình trạng béo phì ở bệnh nhân gút cũng là một trong những nguyên nhân. Do thuốc điều trị tăng huyết áp thường sử dụng thuốc lợi tiểu hạ huyết áp, có thể ức chế đào thải axit uric và làm tăng trị số axit uric nên cần phải lưu ý điều này.

Điều trị bệnh gút bằng cách nào?

bien-chung-benh-gut-va-thuoc-bac-tri-benh-gut-4

Có thể ức chế axit uric bằng cách kiểm soát chế độ ăn uống của bạn không? Có, nhưng hiệu quả bị hạn chế. Vì 20% axit uric trong máu đến từ thức ăn, 80% là do quá trình trao đổi chất trong cơ thể tạo ra. Axit uric có thể được đào thải qua thận, nếu axit uric được đào thải ra ngoài một cách thuận lợi sẽ có tác dụng ức chế axit uric rất hiệu quả.

Các loại cây thường được các thầy thuốc xưa sử dụng để ngăn ngừa các biến chứng của bệnh gút là:

1. Rễ rau diếp xoăn

Chiết xuất từ rễ rau diếp xoăn có chức năng điều hòa lipid máu và hạ axit uric, có tác dụng điều hòa tốt tình trạng tăng axit uric và tăng triglycerid máu. Các thành phần hiệu quả của rễ rau diếp xoăn có thể làm giảm đáng kể sự gia tăng triacylglycerol huyết thanh, axit uric và lượng đường trong máu do tăng đường huyết, và điều chỉnh toàn diện sự tương tác của lipid, đường và axit uric.

Rễ rau diếp xoăn có tác dụng kép là ức chế sản xuất axit uric ở động vật bị tăng axit uric máu và thúc đẩy quá trình đào thải axit uric ra ngoài.

Điều đáng nói là tác dụng hạ chất béo trung tính của nước chiết xuất từ rễ rau diếp xoăn hơi yếu hơn so với fenofibrate của thuốc tây y cổ điển, và tác dụng hạ axit uric tương đương với benzbromarone.

Uống 3-5g trà rễ diếp xoăn trong nước mỗi ngày có thể điều chỉnh toàn diện lượng đường trong máu và lipid máu, đồng thời điều hòa hàm lượng axit uric trong cơ thể

2. Bồ công anh

Một loại rau dân dã phổ biến là bồ công anh có tác dụng lợi tiểu rất tốt. Trong nghiên cứu y học hiện đại, bồ công anh có tác dụng kháng khuẩn phổ rộng, có tác dụng tốt đối với tụ cầu vàng và liên cầu tan máu. Uống nước đun bồ kết có tác dụng lợi tiểu rất tốt và giúp đào thải axit uric qua thận. Đồng thời, bồ công anh có tác dụng thanh nhiệt tiêu viêm, có tác dụng cải thiện tốt tình trạng nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm thận, viêm tuyến tiền liệt, viêm tuyến vú.

3. Râu ngô

Trong y học cổ truyền, râu ngô có tính chất chỉ thống, lợi tiểu, tiêu sưng, có tác dụng bổ gan, thông túi mật. Bệnh nhân mỡ máu cao, huyết áp cao, đường huyết cao có thể hạ lipid máu, huyết áp, đường huyết.

Nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy, râu ngô chứa nhiều nitrat kali, vitamin K, sitosterol, stigmasterol và một loại ancaloit dễ bay hơi. Lợi tiểu, hoạt huyết, hạ đường huyết, cầm máu, lợi mật và các tác dụng khác.

Dù là ngâm nước với riêng bồ công anh hay phối hợp với râu ngô đều rất thích hợp cho bệnh nhân gút để ngăn ngừa biến chứng.

Bệnh gút nếu không được điều trị sớm sẽ gây ra nhiều vấn đề sức khoẻ khác nhau, chính vì thế bạn cần thực hiện những biện pháp như thay đổi lối sống, thay đổi chế độ ăn uống để có thể kiểm soát căn bệnh này một cách tốt nhất.

Chúc bạn luôn mạnh khoẻ!

5 | ★ 121
Dược sĩ Duy |

Dược sĩ Duy, Cử nhân có 15 năm kinh nghiệm điều trị các bệnh lý thuộc chuyên ngành Vật lý trị liệu/Phục hồi chức năng, đặc biệt là bệnh lý thuộc các lĩnh vực: Bệnh Gout, Cơ xương khớp, thần kinh, chấn thương, kỹ thuật chỉnh hình và nhi khoa